Bài văn này hiện thấy nói là khuyết danh, chứ không phải là của Lý Thường Kiệt như chúng ta vẫn tưởng:
"Giáo sư Bùi Duy Tân, người thày dạy tôi ở trường đại học Tổng hợp Hà Nội, đang điều trị ung thư giai đoạn cuối ở bệnh viện Hữu Nghị, nhờ con chở đến và xin đăng kí phát biểu trong hội thảo thơ tại nhà Thái Miếu trong Ngày thơ Việt Nam, chiều Rằm tháng Giêng năm Kỉ Sửu (2009), do nhà thơ Vũ Quần Phương, chủ tịch hội đồng Thơ chủ trì và tôi là ủy viên hội đồng, được phân công cùng với nhà thơ Vũ Quần Phương, thực hiện cuộc hội thảo này.
Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt thường được biểu diễn trong màn múa hát dàn dựng theo phong cách sử thi rất hoàng tráng với giáo mác oai hùng tại sân khấu chính của Ngày thơ Việt Nam. Giáo sư nói với chúng tôi rằng: đây là lời phát biểu cuối cùng của ông, vì ông không biết sẽ “đi” ngày nào. Chúng tôi đã dành cho ông 45 phút, trong khi những người khác, chỉ có 15 phút. Tại đây, trong không khí linh thiêng của nhà Thái Miếu, có đốt hương trầm khi hội thảo khai mạc, giáo sư đã chính thức báo cáo rằng, bài thơ ấy khuyết danh, giáo sư là người đầu tiên gán cho Lí Thường Kiệt và sau đó, ông cùng những cộng sự của ông và những học trò của ông nữa, đã viết vào tất cả các loại sách giáo khoa, từ cấp tiểu học đến trên đại học. Và bây giờ, trong hương khói linh thiêng của Thái Miếu - Quốc Tử giám Thăng Long - Hà Nội 1000 năm văn hiến, ông chính thức xin lỗi các thế hệ thày giáo và các thế hệ học trò…"
Nghĩ cũng tiếc, bởi bài thơ mấy chục năm nay, đã được coi là Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc do Lí Thường Kiệt soạn thảo. Và tên ông, Lí Thường Kiệt, sánh ngang với Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Bây giờ không phải của Lí Thường Kiệt thì ứng xử ra sao… Thực ra, không có ý kiến chính thức của giáo sư, bất cứ ai có chút am hiểu về lịch sử và thơ văn thời Lí, cũng đều biết bài thơ ấy khuyết danh, chỉ là tục truyền, mà ngay tục truyền cũng không ghi: “tục truyền rằng bài thơ ấy là của Lí Thường Kiệt”, như sau này ghi tục truyền rằng: những bài thơ Nôm ấy (ám chỉ âm vật và chuyện buồng the) là của Hồ Xuân Hương (mà không phải của Hồ Xuân Hương).
Tôi tra trong Đại Việt sử kí toàn thư (1479) tập I, chương Nhân Tông hoàng đế nhà Lí, năm Bính Thân (1076), vua sai Lí Thường Kiệt đánh Tống trên sông Như Nguyệt. Sau khi ghi xong cuộc chiến, với thắng lợi lớn rồi, sử gia mới ghi thêm trong ngoặc đơn (…), nguyên văn như sau (“Tục truyền rằng, Thường Kiệt đắp luỹ làm rào ở dọc sông để cố giữ. Một đêm các quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân, có tiếng ngâm to rằng: Nam quốc sơn hà nam đế cư…) Sử gia ghi hết bài thơ 4 câu rồi viết sang việc khác ngay, không ghi bài thơ đó tục truyền là của ai và kết quả bài thơ ấy trong trận đánh là như thế nào.
Bây giờ, trên các diễn đàn và trên các sách báo, vẫn có người nói và viết về bài thơ này của Lí Thường Kiệt… Dù vài năm nay, sách giáo khoa dạy cho học sinh phổ thông trong nhà trường, bài thơ ấy đã đề khuyết danh rồi. Và một bạn tôi cho hay, bài thơ NAM QUỐC SƠN HÀ thiếp chữ vàng đề tên Lí Thường Kiệt trong bảo tàng lịch sử nay cũng không đề tên tác giả nữa."
Theo Trần Nhuận Minh
NAM QUỐC SƠN HÀ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nam quốc sơn hà (Hán tự: 南國山河) là một bài thơ thần, hiện còn khuyết danh tác giả, được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Đây là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam. Bài thơ được cho là của Thần, do Thần đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống năm 981 và Lý Thường Kiệt chống quân Tống năm 1077.
Bản chuẩn Nguyên bản Hán Văn:
南國山河
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛
Bản phiên âm Hán-Việt:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản dịch thơ:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách Trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Dị bản khác
Phiên âm Hán - Việt:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng Thiên dĩ định tại Thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Bạch nhận Thiên hành phá trúc dư
Bản dịch thơ:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam, vua Nam ngự
Sách Trời định phận rõ non sông
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Nguồn gốc
Từ trước, bài thơ được cho là sáng tác của Lý Thường Kiệt trong lần chống quân xâm lược Tống tại sông Cầu năm 1077. Tuy nhiên mới đây, trong cuốn sách Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn do Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 2006, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định bài thơ này ra đời từ thời Tiền Lê và cũng được sử dụng trong trận đánh chống quân Tống, nhưng là lần đầu vào năm 981. Từ năm 2006, Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định để khuyết danh tác giả khi đem vào giảng dạy môn ngữ văn cho học sinh lớp 7.
Các tác giả cho rằng: Sử sách (Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Việt điện u linh...), đều chép Lý Thường Kiệt sai người vào đền thờ anh em Trương Hống, Trương Hát (tướng của Triệu Việt Vương) ngâm bài thơ này nhưng không nói rõ ông là tác giả. Như vậy, các tác giả kết luận: Lý Thường Kiệt chỉ là người vận dụng bài thơ này để đuổi quân Tống.
Bằng nhiều dẫn chứng, các tác giả khẳng định bài thơ được sáng tác thời Tiền Lê và cũng được Lê Hoàn vận dụng, trong đó bài thơ có một vài chữ sai khác với văn bản mọi người thường biết.
Trên thực tế, tư liệu để lại xác đáng hơn cả viết bài thơ này được Lê Hoàn sử dụng là sách Lĩnh Nam trích quái, khoảng trang 72-74 có ghi: “Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa to, gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Quân Tống nghe thơ, xéo đạp vào nhau mà chạy tan… Lê Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân… sai dân phụng thờ… nay vẫn còn là phúc thần”.
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|